Di tích lịch sử văn hoá Đình Dầu Giây

2040
Di tích lịch sử văn hoá Đình Dầu Giây
Di tích lịch sử văn hoá Đình Dầu Giây

Dân tộc Việt Nam vốn tự hào có 4000 năm văn hiến và trải qua các trào lưu tiến hóa, thăng trầm của xã hội, đã cải tiến đổi mới về mọi mặt, nhưng tâm linh tính ngườn vẫn tồn tại trong ký ức tâm khảm của con ngừi chúng ta qia các lớp thế hệ và lưu truyền cho con cháu kế thừa mãi mãi về sau.Nói về sự tôn kinh phụng thờ, ở nhà thì có tổ tiên, ông bà cha mẹ để tri ân báo hiếu, ở xã hội cộng đồng tập thể như ở làng thì có chùa, đình am, miếu..tùy theo nhận thức của mỗi người dân để sinh hoạt tín ngưỡng.

Chẳng hạn như đình, sự tôn kính phụng thờ chư vị thần linh, các ngài bình sanh là các ngài bình sanh là các bậc khai quôc công thần, hoặc các bậc quan tướng trấn nhậm tại địa hạt, đến lúc lâm chung xét thấy vị quan đó trung quân ái quốc các vị Vua ban Sác phông Thần, vì vậy mỗi làng chỉ có một đình Thần Hoàng mà thôi, nếu đình nào có sắc ấn, các ngài là căn cứ của hoài bão chúng ta và mục đích cầu vọng là mong chư Thần giáng phước cho Tổ Quốc được Độc lập – Tự do- Hạnh phúc, cho địa phương được phồn vinh thịnh vượng, mưa hòa gió thuận, nhơn an, vật lợi, đoàn kết thương yêu nhau, hành động và tư tưởng này như các miền Bắc, Trung, Nam chúng ta đều thể hiện.

Bởi vậy khi đặt chân đến địa xứ Dầu Giây này quý lão thành tự vận động họp bàn để tìm mọi cách thành lập một ngôi đình, với tư cách của một công dân làm mướn cho đồn điền của Pháp lúc bấy giừ chỉ biết vào tiền lương hành tháng không đủ ăn, áo không đủ mặc còn thời gian hầu như bị chon vùi vào công việc của sở. Tuy vậy các cụ cũng phấn đấu cố thực hiện một ngôi Đình bằng những vật liệu đơn sơ vào năm 1939 đình được tọa lạc cách gã ba Dầu Giây 700m về hứơng Tây Bắc, cách quốc lộ 1 50m về phía tay phải Long Khánh- Biên Hòa đầu đường hướng lộ vào ấp Ngô Quyền, thời điểm này do cụ trần Văn Trát làm Hội Chủ. Đồng thời có sự hỗ trợ tinh thần của quý cụ như: cụ Lê Văn Thất, Nguyễn Văn Lợi, cùng chung lưng sát cách để xây dựng đình làng gồm có các cụ: Nguyễn Văn Y, Hồ Văn Sử, Hồ con, Nguyễn Văn Lem, Lê thanh Thí, Nguyễn Đỏ, Nguyễn Hữu Thẩm, Nguyễn Văn Do, Nguyễn Văn Ngôn…

Sau 14 năm quý cụ của 2 ấp Centre và A (Trần Cao Vân, Phan Bội Châu bây giờ) đã tranh đấu đòi các chủ sở Pháp phải chấp thuận cho 2 ấp được thực hiện cho một ngôi đình để thờ thần Hoàng bổn xứ cũng cùng vào thời điểm này 1952 cách mạng vùng lên tập kích vào những yếu cứ, đồn bốt của pháp, trục lộ giao thông, điển hình bấy giờ ở Trảng Bom cách mạng đã tập kích vào đồn Rạch Động do Pháp trấn giữ giũa ban ngày vì vấn đề an ninh mọi mặt, cuối cùng các chủ sở Pháp, phải chấp thuận cung cấp vật liệu, nhân công và tiền bạc để thực hiện một ngôi đình kiên cố, công trình được thật sự đặt đá vào mùa xuân Quý Tỵ 1953, với diện tích 6,88x x 7,60m = 52,288m2 trên tổng diện tích 6.510m2 có chiều dài 105m ngang  62m (xem họa đồ bản 1). Tứ cận: Đông giáp bơm nước, Tây giáp lô 43, Nam giáp hương lộ Dầu Giây – Hưng Lộc, Bắc giáp Suối mủ. Thời điểm này do cụ Nguyễn Văn Quý làm Hội trưởng và quý cụ lão thành thuộc chức sự của Làng như: Nguyễn Văn Y, Hồ Văn Sử, Hồ con, Nguyễn Hữu Thẩm, Lê thanh Thí, Lê Văn Dẩm, Nguyễn Đỏ…kể từ dó dân 2 ấp centre và A thành lập 1 làng gọi là làng Dầu Giây và hằng năm làng đã có nơi để tế lễ Thần Linh, một số dân làng đã tự vận động cúng các Pháp Bảo để thờ tại đình trung như:

Một bộ Tam sư loại I bằng đồng thau thờ bàn thờ giữa do quý ông:

  1. Hồ Văn Ngữ
  2. Võ Văn Khỏe
  3. Nguyễn Tựu
  4. Nguyễn Hữu Thẩm
  5. Hoàng Văn Bá

Hai bộ Tam sư loại II bằng đồng thau thờ hai bàn thờ tả hữu, do quý ông bà:

  1. Nguyễn Thị Đối
  2. Lê Thị Kiểm
  3. Nguyễn Thị Lầm
  4. Bà Bộ Đoan
  5. Lê Thị Đối

Đến năm 1961 theo nguyện vọng của làng chủ sở pháp cho thực hiện thêm một tiền đình với diện tích nền 6,88m x 7m = 48,16m2 bằng vật liệu kiên cố và một tam quan nối liền tiền đình theo kiểu Nhật Bản 4 cột căm xe mái lợp ngói, trên nóc có gắn Lưỡng Long Triều Nguyệt, để lấy thời điểm này làm kỷ niệm Tôn Tạo ông có vấn Lê Văn Dâm đã trồng một cây đa phía tả Tiền Đình, đến năm 1967 ông Xu Phát cúng một trống đại, đến thời điểm cụ Quý từ trầ, làng đề cử ông Trần Ngôn làm Hội trưởng khi nhận chức vụ này ông rất tích cực phục vụ, đồng thời thành tâm xin cúng một pho tượng bằng Thạch cao biểu hiện vị Thần Hoàng, làng nhất trí và lễ yên vị được cử hành vào dịp lễ chung niên năm Quý Hợi (1983), cùng dịp này quý bà:

  1. Hoàng Thị Lan
  2. Nguyễn Thị Hải
  3. Lê Thị Ngan
  4. Bùi Thị Đức đã phát tâm cúng:

2 câu đối chữ 1 bức hoành phi thờ tại chính điện.

Về mặt ngân sách làng không có một nguồn lợi nào khác chỉ huy động dân làng hảo tâm hỷ cúng mà thôi, vì vậy cuối năm 1986 làng quyết định cho phát canh số diện tích còn lại thuộc khuôn Viên của Đình để trồng cà phê đến mùa thu của người lãnh canh 1 số cà phê quy tiền rất ưu đãi để dung vào việc trùng tu, sửa chữa, tế lễ 3 kỳ của một năm. Anh Nguyễn Thái Học đã làm đơn xin lãnh canh đứng ra hợp đồng với làng 10 năm kể từ 1987 đến 1997. Khi đó làng mới kéo dây đo đạc thì số diện tích bị co hẹp với lý do là bị người xung quanh lấn ranh môi ngày một ít, đến khi đo lại thì đã mất số diện tích, hiện đạt được 4307m2 (xem họa đồ bản 2) diện tích bị mất 2203m2. Đây là lỗi chung của các thời kỳ hội trưởng về mặt hành chánh không bàn giao cụ thể văn bản, chứng từ không rõ rang, nếu nói quy trách nhiệm thực sự không biết mâu chốt từ đâu…. Đành vậy với số diện tích hiện có làng chấp thuận cho anh Học hợp đồng. Đồng thời làng cũng nhờ anh Học làm từ để trông coi hương đèn ở Đình, cùng thời điểm này (năm 1987) ông Trần Ngôn từ trần, làng tạm thời mời ông Trần Văn An nhận chức vụ  hội trưởng được 1 năm. Trong thời gian này ông không tích, quy cách điều hành lỏng lẻo, tinh thần quý cụ bị sa sút chia rẽ lại bị kẻ xấu dèm pha đàm tiếu làm cho tình đoàn kết giữa 2 ấp bị tổn thương khá trầm trọng.

Đến năm 1989 làng quyết định triệu tập phiên họp đặc biệt gồm có các cụ bô lão, chức sự họp tại Đình Trung, sau khi bàn bạc làng quyết định mời ông Nguyễn Văn Tân là một hội viên kỳ cựu ra nhận chức vụ hội trưởng, Ông tân là người có trình độ văn hóa, am hiểu khá nhiều về cổ lễ và nắm vững nguyễn tắc điều hành, khi nhận chức vụ ông Tân đã bắt tay vào khâu chấn chỉnh lại bộ khung của làng.

Ban quý tế đình Dầu Giây
Ban quý tế đình Dầu Giây

Qua quá trình thời gian đảm trách các bộ môn đa số có tinh thần phục vụ, tích cực trong mọi công tác luôn phấn đấu với nhưng thất bại, khác phục mọi gian khó, thường xuyên thăm dò tâm tư của các hội viên, lắng nghe những ý kiến khách quan có tính chất xây dựng, gạt bỏ mọi dư luận tiêu cực, chống đối những mê tín dị đoan, thoái hóa và móc ngoặc. nhưng vẫn có thiểu số vài vị chức sự nhận phần hành cho có lệ chứ không năng nổ tham gia trong mọi công tác của đình.

Đến năm 1991 ông Hội trưởng đề nghị sửa chữa phần nóc đình mái lợp, đòn dong bị mọt ăn, ngói bị gãy bể các cây men móc ngói cũng bị mối đục khoét, các câu đối ở các cột bị lu mờ, xét thấy rất nguy hiểm  vì vậy làng chấp thuận cho sửa chữa kinh phí sử dụng hết 1.200.000đ, nông trường cao sư Dầu Giây ủng hộ 7 bao Ciment, 1 khối cát và 2000 viên gạch, anh Phan văn Nhơn phát tâm xây 1 miếu thờ Ngũ hành phía tả tiền đình dưới gốc cội đa.

Đến năm 1993 ông Hội trưởng đề nghị với làng nên thực hiện một Tam quan hướng ra mặt đường vì đây là bộ mặt ngoại phong cốt cách, nó chính là điểm chính yếu để trang trí cho các ngày đại lễ, làng chấp thuận cho thực hiện, kinh phí hết 3.200.000đ.

Còn một công việc rất quan trọng nữa là đắp đất phần tả Đình vì lâu ngày nước mưa cuốn trôi sói chân móng vị khuyết trầm trọng, từ hội trường đến dân làng đề nghị nhiêu lần, nhưng không thực hiện được vì ngân khoản của làng không có.

Với một thời gian khá dài từ 1989 đến 1996 là 7 năm, số chức sự làng có vị từ trần, có vị không tích cực tham gia mà qua các năm làng đã bổ sung để điền khuyết tạm thời, vì vậy làng quyết định chấn chỉnh lại hệ thống tổ chức của Hội Đình làng để tiện việc điều hành và tiện quy trách phần hành để cùng thi đua hầu phục vụ mỗi ngày thêm tốt hơn.

Có nhiệm vụ địa diện làng để tế lễ Thần Hoàng, Lễ tế tiền hiền, lễ tế âm linh tại đình Trung cũng như ở Miếu âm hồn Trần Cao Vân, mỗi năm tại đình tế chính thức 3 kỳ.

  • Lễ Minh niên vào ngày 8/1
  • Lễ Thu Đường vào ngày 16/7
  • Lễ Chung Niên vào ngày 20/12

Tại miếu âm hồn Trần Cao Vân chính thức 2 kỳ.

  • Lễ Thu Thường vào ngày 18/7
  • Lễ Chung Niên vào ngày 22/12

Sau khi bầu ban chức sự, láng đã thiết lễ tại Đình Trung do ban chức sự đảm lễ Thần linh và xin hạ quyết tâm phục vụ, không vì quyền lợi cá nhân để trục lợi, không vì tự ti mặc cảm mà sao lãng phần hành, lấy tinh thần bác ái vị tha để điều hành và xây dựng, đồng thời làng cũng mời 2 vị Lão thành làm cố vấn mọi mặt cho Ban chức sự hầu đtạ được kết quả mỹ mãn hơn.

Ban quý tế đình Dầu Giây đón bằng công nhận di tích cấp tỉnh
Ban quý tế đình Dầu Giây đón bằng công nhận di tích cấp tỉnh

Bản tiểu sử và tổ chức điều hành này biên soạn lại mục đích thống nhất điều hành hiện tại và lưu truyền cho các thế hệ về sau làm nền tảng trung nguyên cội rẽ và thừa hành nguyên tắc cho mai hậu./.

Theo UBND Huyện Thống Nhất

Chia sẻ